Web Content Viewer
Thời ấy...
Sau Hiệp định Genève về đình chiến ở Đông Dương (7/1954), đất nước ta tạm phân chia hai miền thì Quảng Trị là địa bàn tạm chia hai vùng Nam - Bắc, cầu bắc qua sông Hiền Lương phân chia nội tỉnh cũng là vạch phân chia một nước. Huyện Vĩnh Linh của Quảng Trị thuộc phía Bắc vĩ tuyến 17, các huyện, thị xã còn lại thuộc phía Nam.Cầu Hiền Lương thời ấy (Ảnh: TTXVN)
Phòng Ngân hàng Vĩnh Linh một thời ấy là đại lý của Ngân hàng Quảng Bình, tôi được phân công về đó, anh Ngô Cháu làm trưởng phòng, anh Đỗ Văn Châu là tổ trưởng ba người của tôi và anh Nguyễn Khánh Khả. Xóm thôn sau chiến tranh còn tiêu điều, thiếu đói, hoạt động bằng đồng tiền chỉ có một ngân hàng quốc gia, chưa nói tới đầu tư công trình, xây dựng dự án mà trước hết là lo cho dân cái ăn, cái mặc, cuốn vở cho con em học chữ, đắp lại con đường đất trong mỗi xóm, thôn. Phái đoàn Liên hiệp Việt - Pháp đi đóng cột mốc phân biệt vùng phi quân sự dọc bờ giới tuyến từ bờ sông Hiền Lương trở ra Bắc 5km, họ phải tự mang theo cơm, bánh, nước uống... Điểm sáng nhất lúc đó là đầu tư cụm nhà trực và đồi gác phía Bắc cầu Hiền Lương cùng với cây cầu lát gỗ ván qua sông, sơn hai màu đỏ, xanh thể hiện hai chế độ. Ngành Tài chính và Ngân hàng lo tiền bạc, kinh phí chủ yếu được Trung ương cấp là vùng phi quân sự không có quân đội nhưng có các đoàn “Thanh niên xung phong” được điều động tới góp sức sửa chữa, phục hồi và xây dựng các công trình không chỉ vì tiêu biểu cho Vĩnh Linh - Quảng Trị mà còn là đại diện cho miền Bắc Việt Nam trong phe xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ... Tôi đến làng Mô Nham, xã Văn Thành vào loại nghèo nhất Vĩnh Linh. Làng ở đồi cao, có sự cố chỉ một đêm đất rung nhão ra cây cối chết trụi cả. Sau đó đất cứng đanh lại, mỗi hộ chỉ vay tiền 100 đồng được ngọn khoai để tưới nước mới mau có rau, củ chống đói. Tôi đến làng Vịnh Mốc xã Vĩnh Thạch cho vay thuyền, lưới đánh cá, thuyền nhỏ ra biển vào đất liền hàng ngày, cũng là cầu chi viện nhân vật lực ra đảo Cồn Cỏ xa 28 km (về sau Vịnh Mốc xây dựng hệ thống địa đạo 3 tầng sâu, dài trên 2.100m như kỳ quan nổi tiếng anh hùng trong đánh giặc Mỹ). Những con thuyền giương cánh buồm no gió như tỏ rõ khí phách hào hùng băng sông nước từ đồng vốn Ngân hàng đưa tới. Đồng tiền, hàng hoá còn giúp dân qua lại sông Hiền Lương buôn bán làm ăn theo giấy phép của Uỷ ban Liên hợp cấp, in 2 thứ tiếng Việt - Pháp do Trung tá quân đội nhân dân Vịêt Nam Trần Chí Hiền ký. Bên kia tuyến là chợ Cầu, chợ Bạn, bên này tuyến là chợ Hồ Xá, chợ Do được chọn làm điểm thị trường tính tỷ giá tiền hàng ngày để trao đổi. Tỷ giá công khai 1 đồng Đông Dương bằng 30 đồng Việt Nam thì dễ tính, có thứ tỷ giá không tính được là lòng dân đôi bờ sông Hiền Lương âm thầm, nhỏ nhẹ nhắc nhau giữ vững niềm tin để chỉ 2 năm tạm phân cách giới tuyến theo Hiệp định Genève (1954 - 1956) rồi trở lại đoàn viên sum họp chung một nhà, một non sông nước Việt không thể nào chia cắt. Vậy mà khi quân Mỹ vào Miền Nam, dựng lên Chính quyền Sài Gòn, niềm tin ấy phải chịu đau thương, mất mát, nuôi giữ đến hơn 17 năm sau, vào giữa năm 1973 mới thật sự trở thành hiện thực. Thời ấy, tôi đến Vĩnh Linh - Quảng Trị trong bao gian khó, làm việc và ở nhờ nhà dân, ăn “cơm bữa diếp” nghĩa là 3 ngày mới có 1 bữa cơm còn thường ngày là sắn lát hầm trộn muối vừng, lạc rang cốt là khỏi đói. Thế mà nghĩa tình sâu nặng, nghĩa vụ thiêng liêng. Một hệ thống Tài chính và Ngân hàng quốc gia mở đầu, để rồi có các tổ chức Ngân hàng, tín dụng, cấp phát đầu tư... ra đời nối tiếp và trưởng thành về sau... Lịch sử quê hương và con người không thể nào quên được...Tiếp một thời ấy...
Sau chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, những đòn tấn công chiến lược và chớp thời cơ của quân dân Miền Nam nước ta vào các sào huyệt đầu não của Mỹ - Nguỵ tạm lắng, địch trở lại tái chiếm các vùng ta vừa mới giải phóng, lấn chiếm thêm một số vùng căn cứ của ta từ trước. Đặc biệt gay gắt là Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, cán bộ, chiến sĩ vào thành phố, thị xã và vùng ven bị đẩy “lên xanh”, cả lực lượng sinh viên, học sinh qua hoạt động Xuân Mậu Thân bị lộ diện cũng phải thoát ra khỏi địa bàn, tay không mà lên chiến khu, chuyển dần ra Bắc đồng thời có những đoàn quân lại tiếp tục vào Nam chuẩn bị những chiến dịch mới. Tình hình đó đặt ra nhu cầu ăn mặc, đồ dùng đi đường cho hàng vạn người rất cấp thiết, một khu vực hậu cần giáp ranh giữa Quảng Bình - Quảng Trị gọi là “tuyến thống nhất” được thành lập. Trong khu vực hậu cần ấy có Chi điếm Ngân hàng Nhà nước tuyến được hình thành, Trung ương giao cho Quảng Bình đảm nhiệm (Ngân hàng Quốc gia được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước từ 10/1961). Tôi được nhận nhiệm vụ tìm hiểu hành trình của các đoàn ra, vào, nắm các đầu mối cung ứng lương thực, hàng hoá thiết yếu đặt dọc tuyến, qua đó Ngân hàng có sự phối hợp phục vụ cho “quân ta” đi ngang qua tuyến hoặc dừng chân nghỉ lấy sức. Công việc trước hết của Ngân hàng là xây trụ sở kiêm kho, đặt ra sự phối hợp giữa Chi điếm Ngân hàng Nhà nước với Chi hàng Kiến thiết rất khẩn trương. Tìm hiểu lịch sử chưa có trường hợp nào cán bộ hai tổ chức Ngân hàng và Chi hàng hợp sức lại, có thêm một số anh chị em ở cửa hàng thương nghiệp tuyến cùng tham gia. Nhà 5 gian, vật liệu gỗ, lá, mây... anh em tự khai thác, 3 gian làm việc và ở 2 gian kho trát đất dày, chống đất dày, chống cháy, mối, chuột. “Công trình” hoàn thành trong 3 tháng, khánh thành dịp 19/5/1969 “lập công dâng mừng thọ Bác”, số quyết toán đúng giá trị 2.000 đồng, bao thứ thiếu vật liệu, ngày công anh em tự làm lấy, không chờ cấp thêm. Buổi khánh thành trụ sở được liên hoan bằng bánh lương khô do đồn biên phòng bên cạnh tặng, cũng gọi là kết nghĩa “quân - dân - chính”. Chi điếm Ngân hàng tuyến Thống nhất do anh Nguyễn Hữu Giải phó Chi điếm Ngân hàng Nhà nước Lệ Thuỷ làm trưởng, anh Nguyễn Quy Hoàn cán bộ Ngân hàng Nghệ An làm kế toán trưởng, anh Võ Quang làm thủ quỹ, anh Nguyễn Khắc Siêu từ Bố Trạch vào làm thủ kho... Anh em hoạt động không chỉ lo tiền bạc mà chuẩn bị cả “hậu cần” lương thực, thực phẩm, thuốc phòng bệnh, các đoàn quân, cán bộ, dân công vào ra, qua tuyến nhiều người gầy yếu lên cơn sốt nằm lại, cán bộ Ngân hàng tuyến ân cần chăm sóc đến giảm đau, bớt bệnh mới tiếp tục lên đường. Gian lao vất vả từ đầu và quá trình đùm bọc nhau cùng chung chiến tuyến như thế, đến sau chiến dịch đường 9 Nam Lào Xuân 1971, quân ta đại thắng thì cả Chi điếm Ngân hàng và Chi hàng được quyết định của trên cho kết thúc nhiệm vụ. Những gì đã góp phần làm nên chiến công chung một thời ấy có một không hai trong đời làm cán bộ ngành nắm vốn, giữ tiền...Thêm một thời ấy...
Hiệp định Paris về ngừng chiến ở Việt Nam ký ngày 27/1/1973. Nhưng trước đó, thị xã Quảng Trị đã phải qua 81 ngày đêm mùa hè 1972 bị bom đạn Mỹ tàn phá tan tành, cày đi xới lại cháy đỏ từng tấc đất. Quảng Trị được giải phóng thêm thị xã Đông Hà và một vùng từ sông Hiền Lương vào đến sông Thạch Hãn, cách giới tuyến quân sự tạm thời 40 km. Một tỉnh có ba vùng được phân định:Một trong những kho hàng trong hang động tại Hạ Lào do Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam cấp vốn để xây dựng
Lịch sử đất nước còn ghi đậm mãi chương mới trên vùng đất Quảng Trị thời ấy với vị trí, trách nhiệm của Chi hàng Kiến thiết và Ngân hàng Nhà nước ở những miền cây cỏ hoang tàn, núi đồi và cát trắng để dựng nên những “pháo đài kinh tế”, chưa đầy 3 năm đưa vốn đầu tư cấp phát lên 671 triệu đồng (giá lúc này vàng đã lên 200 đồng/chỉ, gạo 2,4 đồng/kg...). Giá trị lúc này lớn chẳng những về số tuyệt đối mà cả ý nghĩa về sự quan tâm chăm lo vùng đặc biệt khó khăn, có lúc có nơi đã phải nghĩa tới câu ca “một miếng khi đói hơn một gói khi no” để đi tới tận cùng trách nhiệm của mỗi tổ chức và mỗi cá nhân. Những đồng vốn đầu tư dưới bất cứ thể loại, hình thức nào của những thời ấy trở thành vật chất, tinh thần thấm đẫm vào đất đai, máu thịt của trên 53 vạn người dân Quảng Trị, đi vào xóa đói, giảm nghèo, góp làm nên sức bền bỉ chống giặc, phòng chống thiên tai... Và từ những thời ấy, con người có tích cốc phòng cơ để xây dựng và phát triển, gìn giữ cho thế hệ này qua thế hệ khác... Đã qua đi hàng chục năm chiến đấu và xây dựng, đồng đội đồng nghiệp đều tuổi trên 70 - 80, do điều kiện công tác, sinh sống đã lưu tán đi nhiều nơi trên đất nước. Nhiều người đã “đi xa” để lại tiếc thương cho gia đình, bầu bạn như anh Ngô Cháu, Đỗ Văn Châu, Đoàn Phúc Quát... Qua mỗi thời ấy, lớp trước trao đổi kinh nghiệm cho lớp sau để tiếp tục đi tới không bao giờ dừng lại, bởi con đường sự nghiệp của ngành, của đất nước còn dài, ngày càng rộng mở trên mọi miền quê và hướng ra hoà nhập quốc tế... Xin được gửi vào những dòng hồi ký này nỗi tâm tình của người con từng gắn bó với quê hương Quảng Trị anh hùng.Email: bidv247@yes88play.xyz
Swift code: BIDVVNVX